Nhảy việc và về hưu tại chức

Nhảy việc và về hưu tại chức
 Trong Đại từ điển tiếng Việt, không có các kết hợp từ này. Chúng là những đơn vị ngôn ngữ mới xuất hiện gần đây, dùng để chỉ những hiện tượng, những trạng thái mới có trong đời sống xă hội ta.
 
Hiện tượng "nhảy việc"
Trước hết xin bàn về hiện tượng “nhảy việc”. Đó là t́nh trạng một số người lao động trẻ có tay nghề cao sau khi đă đi làm yên ổn tại một cơ quan, đơn vị nào đó, lại tự dưng xin bỏ việc để nhảy sang cơ quan, đơn vị khác làm. Mà không chỉ nhảy một lần. Rất nhiều người thâm niên công tác c̣n rất ít nhưng đă nhảy việc đến nhiều nơi, làm nhiều loại công việc khác nhau. Hiện tượng này đă trở nên phổ biến và được đặt ra thành một vấn đề trong xă hội.
Về nguyên nhân th́ tựu trung có hai loại: (1) một số bạn trẻ có năng lực và tâm huyết không bằng ḷng với công việc hiện tại, từ chuyên môn nghiệp vụ, môi trường công tác, đến tiền lương và cơ hội thăng tiến, nên họ nhảy việc để t́m đến một chỗ làm tốt hơn; (2) một số bạn trẻ không thể thích ứng nổi với công việc, nên đă phải bỏ nơi công tác này đi t́m nơi làm mới, cá biệt có người không thể làm nổi một công việc ǵ, nên họ phải liên tục nhảy việc, dù có chủ động nhảy hay không.
 
Đă có nhiều ư kiến phân tích hiện tượng nhảy việc này của lớp trẻ. Tuyệt đại đa số các ư kiến đều coi đây là một biểu hiện tốt của nền kinh tế thị trường khi mà chất lượng của nguồn nhân lực đang được định giá lại. Một người có tay nghề cao, một nhân viên có năng lực luôn có quyền đ̣i hỏi một chỗ làm tốt với mức thù lao cân xứng và với cơ hội thăng tiến cao. C̣n một người không có khả năng th́ sẽ bị đào thải ngay, chứ không giống như thời quan liêu bao cấp, trông chờ vào nhà nước lo cho ḿnh, đă xin vào được cơ quan nhà nước rồi th́ cứ yên vị măi, không có chuyện ra, dù anh ta chỉ là người vô dụng.
 
Nhưng thú vị và đáng bàn hơn là hiện tượng nhảy việc của những người đă thành công trong công tác, những người không c̣n trẻ mà sự ra đi của họ được khá nhiều người gọi là “chảy máu chất xám” cho đơn vị đang quản lư và sở hữu họ.
 
Cuối năm 2007 vừa qua, dư luận xôn xao về việc một vị cấp vụ trưởng đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước nộp đơn xin thôi việc v́ lư do riêng và để t́m công việc phù hợp hơn. Đó là ông Vụ trưởng Vụ Các ngân hàng và Tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Một nhân vật nữa có hàm vụ trưởng, là Giám đốc Sở Giao dịch thuộc Ngân hàng Nhà nước mới đây cũng xin nghỉ việc để chuyển sang nơi khác. Ông này từng làm việc tại một ngân hàng thương mại cổ phần lớn ở cương vị Tổng giám đốc với mức lương cao. Sau đó, v́ "niềm đam mê lớn nhất cuộc đời là tỉ giá", ông đă quyết định về Ngân hàng Nhà nước. Nhưng rồi, ngồi chưa ấm chỗ ông lại phải xin ra đi.
 
Ở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, không chỉ có cán bộ cấp vụ, cấp pḥng đă tự động làm đơn xin nghỉ việc để đi t́m một công việc mới (ngoài khu vực nhà nước), mà hiện đă có hàng trăm cán bộ, công chức có năng lực, tŕnh độ và tâm huyết lần lượt nộp đơn xin thôi việc. Trên thực tế, hầu hết cán bộ, công chức này đều ở độ tuổi "chín", được đào tạo cơ bản, giỏi ngoại ngữ, rất tâm huyết và có tự trọng nghề nghiệp cao. Hiện tượng này đang được cảnh báo như một sự rút ruột chất xám các ngân hàng nhà nước và đang lan ra cả khu vực các ngân hàng thương mại.
 
T́nh trạng này sẽ không dừng lại bởi lẽ, số ngân hàng cổ phần được cấp phép thành lập mới đang tăng lên. Vấn đề nhân lực trong ngành, nay đang căng thẳng hơn bao giờ hết. Sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng mới có nguy cơ làm rối loạn nguồn nhân lực, nhất là ở các ngân hàng thương mại cổ phần. V́ thế, thu hút chất xám (mà không phải bỏ công đào tạo) để nâng cao năng lực của ngân hàng ḿnh, đồng thời “triệt tiêu trí tuệ” của các ngân hàng đối phương đang là cách làm “độc” của một số ngân hàng.
 
Không chỉ riêng ngành ngân hàng, mà trong các lĩnh vực khác, kể cả trong lĩnh vực quản lư Nhà nước cũng đang xảy ra hiện tượng người giỏi, người có năng lực quay lưng lại với công việc trong khu vực Nhà nước.
 
Tại thành phố Hồ Chí Minh, đầu năm 2007, ông Phó Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố phụ trách mảng đầu tư nước ngoài nộp đơn xin nghỉ việc để mở công ty riêng. Sự kiện này tạo nên dư chấn trong dư luận v́ lần đầu tiên có hiện tượng quan chức quản lư từ nhiệm để đi làm doanh nhân. Và cả năm 2007, có tới ba vị đang là Phó Giám đốc Sở lần lượt làm đơn xin từ nhiệm.
 
Đồng thời với sự từ nhiệm của các cán bộ quản lư, các công chức, viên chức các đơn vị cấp sở cũng làm đơn xin nghỉ việc. Đơn cử như sau khi ông Phó Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư xin nghỉ, hai Phó pḥng Xúc tiến đầu tư của Sở cũng xin nghỉ việc (hai người này đều đă bảo vệ luận án tiến sĩ ở nước ngoài).
 
Hoặc như ở Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đồng thời có tới 20 cán bộ nghiên cứu xin nghỉ việc. Tại Sở giao thông công chính trong năm 2007 có đến 27 chuyên viên là kỹ sư cầu đường có thâm niên xin nghỉ việc. Và các cán bộ cấp pḥng tại các sở ngành khác cũng xin ra đi nhiều tới mức có người đă ví von “nghỉ nhiều như sung rụng”.
 
Thậm chí, ở cấp phường là đơn vị chính quyền cơ sở cũng diễn ra t́nh trạng này. Tại một phường của Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết cán bộ điều hành chủ chốt – kể cả Chủ tịch phường – đă xin nghỉ để ra làm ngoài. Không những thế, xu hướng này đang có nguy cơ lan sang các tỉnh thành khác.
Hàng loạt các cuộc ra đi ở nhiều sở ngành khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh khiến cho câu chuyện chảy máu chất xám từ các cơ quan công quyền trở nên nóng bỏng. Bởi lẽ, những người từ nhiệm đều là những người “giỏi, rất giỏi”, như ông Phó giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố, một người đựợc đánh giá cao v́ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm dày dạn trong công việc. Là chuyên gia công pháp quốc tế, quản trị doanh nghiệp, tốt nghiệp đại học tại Thụy Sĩ, trước khi giữ chức Phó Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư, ông từng giữ chức Phó Giám đốc Sở ngoại vụ, là một trong số ít cán bộ của thành phố thông thạo hai ngoại ngữ tiếng Anh và Pháp.
 
Theo ư kiến của nhiều người, họ xin nghỉ việc đa phần do thu nhập thấp trong khi áp lực công việc quá cao. Thế nhưng, thu nhập thấp không hẳn là nguyên nhân chính gây nên làn sóng ra đi khỏi các cơ quan nhà nước. Môi trường làm việc và chính sách dùng người nhiều bất cập đă khiến những cán bộ giỏi, tâm huyết, sau nhiều năm cống hiến cảm thấy nản ḷng và họ lựa chọn cách ra đi.
Thực tế, hầu hết những cán bộ khi rời nhiệm sở, nếu không mở công ty riêng th́ ngay lập tức cũng được các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài hay tư nhân trải thảm đỏ mời chào với mức lương hàng ngàn USD/tháng.
 
Những người có năng lực đi t́m một chỗ làm phù hợp với ḿnh hơn, có thu nhập cao hơn cũng là hợp logic. C̣n về góc độ xă hội, hiện tượng xin thôi việc đang làm trong các cơ quan nhà nước, đi làm ngoài khu vực nhà nước đă phản ánh xu thế thay đổi về nhận thức của người lao động có tŕnh độ cao ở nước ta. Họ đă không c̣n bằng ḷng với cách nghĩ đi làm công ăn lương Nhà nước suốt đời, mà đă chủ động t́m nơi cống hiến và thu nhập theo sự cống hiến.
 
Đây cũng là cách tự quyết định lấy số phận của cá nhân mỗi người trong lao động và hưởng thụ. Cũng v́ thế mà, việc dịch chuyển lao động tay nghề cao từ khu vực sản xuất này sang khu vực sản xuất khác là đúng quy luật và hết sức b́nh thường trong nền kinh tế thị trường. Câu chuyện c̣n lại là vấn đề giữ cán bộ của từng cơ quan, đơn vị và của Nhà nước.
 
Tình trạng "về hưu tại chức"
Ngược lại với t́nh trạng nhảy việc là t́nh trạng về hưu tại chức. Kết hợp từ có vẻ ngược nghĩa này dùng để chỉ một số lượng công chức nhà nước đông đảo hiện đang làm việc, đang trong biên chế của các cơ quan hành chính, quản lư nhà nước nhưng trên thực tế là thất nghiệp hoặc có việc nhưng không làm, hoặc có muốn làm nhưng không có năng lực để làm việc.
 
Xét về tổng thể, họ là nạn nhân của cơ chế quản lư hành chính bao cấp thời trước, khi một người được tuyển vào làm tại một đơn vị, một cơ quan hay một doanh nghiệp của nhà nước th́ họ có thể yên tâm ở đó suốt đời, bất kể họ có làm được việc hay không và có việc để làm hay không. Họ cứ có tên trong biên chế, trong sổ lương, “sáng cắp ô đi tối cắp về” mà không có một công việc rơ ràng, hiệu quả hoặc công việc đó không xứng với đăi ngộ mà họ đang hưởng cho đến khi họ về hưu.
 
Xét đơn lẻ, họ là nạn nhân của chính họ với thói lười biếng, ỷ lại, trông chờ vào cơ chế. Thực chất là họ đang “tại chức”, đang đi làm, nhưng hiệu quả công việc, thái độ công tác của họ th́ đă “về hưu”. Họ là những người về hưu tại chức. Sự có mặt của họ trong guồng máy hành chính đă khiến cho người dân đóng thuế phải trả lương cho sự tồn tại của họ, chứ không phải là trả cho kết quả công tác của họ. Điều này đă dẫn tới sự lăng phí ghê gớm và phi lư.
 
Cũng chính v́ thế mà Chính phủ gần đây đă có hàng loạt chỉ thị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong các cơ quan nhà nước. Mới đây nhất là Chỉ thị số 05/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nhằm khắc phục t́nh trạng mà dân gian vẫn gọi là “tám giờ vàng mă”. Tuy nhiên, để chấm dứt t́nh trạng “về hưu tại chức” này, chúng ta cần đến một sự thay đổi rơ ràng về cơ chế, chứ không phải chỉ ban hành luật về công chức và công vụ là đủ.
 
Hiện tượng nhảy việc vừa nói ở trên, lại có thể thành một giải pháp, nhất là khi Nhà nước xác định được lượng chi phí phải trả cho một lượng công việc phải làm đối với từng công chức, viên chức của ḿnh.
 
Nhảy việc và về hưu tại chức có thể là một cặp từ trái nghĩa trong quan niệm về ư nghĩa xă hội của hai hiện tượng. Trái nghĩa từ các thuộc tính biểu hiện trạng thái xă hội: động/tĩnh, tích cực/tiêu cực, phát triển/tŕ trệ… đến những thuộc tính biểu hiện tư chất con người: năng động/sức ỳ, tự trọng/ăn bám… hoặc mạnh mẽ hơn là sống/chết. Suy cho cùng, lao động, làm việc là để duy tŕ đời sống và cũng chính là bản thân cuộc sống. “Chúng ta sống từng giây, từng giây một, mà mỗi giây phút đó không bao giờ trở lại” (V. Putin). Vậy cớ ǵ trong một xă hội đang phát triển lại tồn tại thành ngữ “về hưu tại chức”? Lỗi do đâu?
 
Gần đây, các cư dân trên thế giới mạng đang chuyền nhau một thông điệp từ một bloger nào đó nói về ư nghĩa của thời gian và cuộc sống. Thông điệp không mới, nhưng thiết nghĩ, trích lại cũng là việc nên làm.
 
“Thời gian là cuộc sống", cái đồng hồ ở trên tường không phải là thời gian. Nó chỉ thể hiện cho sự trôi qua của thời gian theo kinh nghiệm của con người. Nó không phải là chủ nhân của ta, nó chỉ là đồ vật do ta tạo ra.
 
Bạn không thể tiết kiệm thời gian, đánh mất thời gian hay rút ngắn thời gian. Nhưng theo một cách nào đó th́ bạn có thể làm như thế được, bởi v́ Bạn chính là thời gian, thời gian là cuộc sống và bạn là cuộc sống.
 
Khi bạn lăng phí thời gian, th́ bạn đang lăng phí chính ḿnh. V́ vậy, nên cẩn thận với cách bạn tiêu phí bản thân. Đừng để cho bất kỳ ai tiêu phí cuộc đời của bạn. Hăy quan sát, t́m hiểu cách mà người khác làm phí đi cuộc đời họ. Bạn không thể đánh mất thời gian, nhưng bạn có thể lăng phí nó. Bạn không thể tiết kiệm thời gian nhưng bạn có thể tiết kiệm cuộc đời. Hăy bắt đầu từ chính ḿnh. Đơn giản là bắt đầu từ sự nhận thức về bản thân mình”./.